Những Nét Đậm Của Đời Tu

TẠI SAO LẠI ĐI TU?

Nhìn Các nữ tu sống và làm việc, nhiều bạn bè của các chị sống giữa đời đã nghị luận: “Cứ chiếu theo hoạt động của các chị mà nhận xét thì nữ tu không thiếu khả năng, không thiếu điều kiện để xây dựng hạnh phúc cho gia đình, đào tạo những công dân tốt cho đất nước qua con cái mình. Sao lại đi tu? Phải chăng vì chán đời, hay vì một kinh nghiệm cây đắng nào về mặt tình cảm, hay vì một suy nghĩ bi quan nào về nhân sinh thế sự?

  • Nguyên nhân nào, động lực nào đã dẫn các chị vào đời tu?
  • Thưa các bạn, nói chung thì có thể khẳng định rằng đời tu Kitô giáo, nam cũng như nữ, là một hành trình đi theo Chúa Kitô, nghĩa là noi gương Người, sống như Người đã sống. Nhưng khởi điểm của hành trình ấy muôn dạng, khác biệt về cái mong manh của đời người, làm dậy lên một khao khát cống hiến cuộc sống cho một thực tại vững bền, vô tận. Có khi là cảnh tượng một cuộc sống xô bồ, sa đọa, giả tạo, hư danh, làm nẩy sinh một ước ao sống ẩn dật trong thinh lặng của tâm hồn, mong đạt đến sự trong sáng của cái CHÂN, cái THIỆN đích thực. Có khi cũng do thất vọng về tình cảm hoặc về một tình trạng xã hội thúc đẩy đi tu để dành trọn thời giờ cho người bất hạnh, kẻ tật nguyền…

Nhiều trường hợp lại do lòng cảm phục cuộc sống phong phú đầy nghĩa cử của một bậc chân tu, một thánh nhân, đã chết hay đang sống, suốt đời vui tươi tận tụy vì tha nhân. Lại cũng có những thanh thiếu nữ xin nhập Dòng này hay tu viện nọ vì cảm mến gương mặt của các nữ tu vui tươi cởi mở, nhiệt tình, lạc quan của tu viện đó. Và còn biết bao mơ ước, biết bao suy nghĩ, biết bao kinh nghiệm cá nhân khác nữa!

Nhưng đó mới là bước đầu. Đó mới là cái kích thích, cái hứng cảm sơ khởi, tạo nên những dịp, những cơ hội, chứ chưa phải là nguyên nhân hay động cơ chân chính của đới tu. Các cơ hội trên mới là những yếu tố chủ quan tạo nên một “diệu cảm”, một rung động nội tâm chứ chưa có gì để bảo đảm một cuộc sống đặc biệt, “không giống ai”, đòi hỏi một sự lột xác thường xuyên.

Vậy thì làm sao biết được cái gì có thể bảo đảm cho một động cơ chân chính đẫn đến một đời tu đích thực?

TIẾNG GỌI TỪ THIÊN CHÚA

Từ ý muốn ban đầu đến bước tuyên khấn công khai nhập Dòng, người thanh nữ phải trải qua một cuộc huấn luyện và kiểm nghiệm kéo dài khoảng 3 đến 4 năm và dài hơn nếu là chuẩn bị “Vĩnh khấn” trước mặt đại diện Giáo hội (thường là Giám Mục) và Bề trên Dòng. Trong thời gian này, người phụ trách huấn luyện cộng đoàn và vị có thẩm quyền nghiên cứu “ơn gọi đi tu” sẽ quan sát, nghiệm xét xem ao ước của đương sự có phát xuất từ một tiếng gọi khách quan của Thiên Chúa hay chỉ là một hứng cảm nhất thời, một thứ lửa rơm bồng bột, không đủ năng lượng để cháy cả một cuộc đời. Muốn nhận định cho ra tiếng gọi khách quan mà Giáo hội thường gọi là “ƠN THIÊN TRIỆU”, đương sự cần được hướng dẫn, theo dõi, qua cuộc sống hằng ngày, nhất là đời sống chung với cộng đoàn cũng như qua việc học tập, rèn luyện, thể nghiệm và cả trắc nghiệm tâm lý nữa, để cả đôi bên xác định được rằng đương sự có “điều kiện cần thiết và đủ” để sống độc thân trong một dòng tu nhất định, với sự bảo chứng của những người có trách nhiệm.

  • Nhưng làm gì phải lôi thôi rắc rối thế, nhiều người sẽ thắc mắc. Biết bao người cũng sống độc thân, cũng không thiếu người chẳng đi tu gì cả mà cũng phục vụ xã hội rất tốt. Họ đâu có thuộc một dòng tu nào hay được tuyển chọn một cách đặc biệt nào đâu?

  • Quả là như thế. Nhưng cần nhận định rõ: Người dấn bước vào tu trong một Hội Dòng, mục đích chính của họ không phải là làm y tá, bác sĩ, giáo viên, hay cô nuôi dạy trẻ… Cũng không phải sống độc thân để được thanh thản, rộng đường hoạt động giúp ích cho đời – điều này có thể có, nhưng nó sẽ là hậu quả chứ không phải là nguyên nhân. Người tu sĩ sống, làm việc, không hẳn để hoàn thành việc này việc nọ, mà là vì MỘT AI mà họ đã khám phá, đã kinh nghiệm như lẽ sống duy nhất, như một cùng đích tối hậu đã kêu gọi họ, đó là Đức Giêsu Kitô, mời gọi họ HIẾN DÂNG trọn cuộc sống vì yêu mến Ngài và vì được Ngài yêu mến chọn vào bậc tu trì. Đây là một tiếng gọi thâm sâu, kỳ bí, chỉ có thể hiểu và nhận ra trong ánh sáng của lòng Tin, của một kinh nghiệm “gặp gỡ” giữa bản thân đương sự và Thiên Chúa.

Trong kinh nghiệm đó, hình như người đi tìm Chúa có được cái trực giác rằng từ nay Thiên Chúa trở nên tất cả cho mình và bản thân mình cũng phải trao phó tất cả cho Ngài qua Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa làm người để thăng hoa, thánh hóa, làm cho con người trở nên con Chúa, biến cái mong manh thành vĩnh cửu, cái hữu hạn thành vô biên, sự yếu đuối tội lỗi thành hồng ân cứu độ. Quả đó là một “trao đổi diệu kỳ” và khôn lời diễn tả giữa Thiên Chúa của vũ trụ bao la và con người là hạt bụi bé nhỏ giữa không gian vô tận.

Nhưng cái gì lấp đầy được khoảng cự ly hầu như vô tận giữa Thiên Chúa – Đấng vô thủy vô chung – và con người bé bỏng? Đó là Tình yêu và Tình yêu cứu độ. Bởi lẽ Tình yêu vạn năng của Thiên Chúa cứu vãn tất cả, Phục hồi tất cả, vĩnh cửu hóa tất cả, theo ánh sáng và niềm tin Kitô giáo.

Đến đây, một dấu hỏi sẽ nổi lên: Nếu các nữ tu được mời gọi đi vào sự trao đổi diệu kỳ đó, vậy thì những người Kitô hữu ở đời không được Chúa ban tình yêu cứu độ và vĩnh cửu sao? Tình yêu Thiên Chúa bên nào nặng hơn? Thiên Chúa không thương yêu tất cả mọi người như nhau sao?

ƠN GỌI TU TRÌ VÀ ƠN GỌI HÔN NHÂN KHÁC NHAU THẾ NÀO?

Đúng là Tình yêu Thiên Chúa bao trùm tất cả mọi người, không loại trừ một ai, từ điểm đầu cho đến điểm cuối của lịch sử loài người, nếu con người không khước từ lòng yêu thương ấy. Đó là một trục lớn của đức tin Kitô giáo. Nhưng trở lại vấn đề đi tu và không đi tu, ai được Chúa yêu mến hơn ai, bên nào hơn, bên nào kém?

  • Thưa, đây không phải là vấn đề hơn kém. Đây là một sự khác biệt về chức năng tinh thần, về cách thể hiện hai lối sống khác nhau mà theo ánh sáng của Tin Mừng, mỗi bên có một cách thể diễn tả Tình yêu Thiên Chúa khác bên kia. Người tín hữu lập gia đình có nhiệm vụ xây dựng xã hội trần thế bằng cách chia sẻ Tình yêu qua cuộc sống lứa đôi, truyền thông và nuôi dưỡng sự sống, giáo dục con cái, tạo dựng qua huyết nhục và đời sống gương mẫu. Những con người có phẩm chất, có hiệu năng góp phần tích cực nhất xây dựng một xã hội đáng sống, giàu ý nghĩa, giàu nhân ái và công bình, qua tất cả hoạt động muôn hình muôn dạng: chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, nghệ thuật… Còn người tu sĩ nhằm một mục đích khác: không dấn thân vào một tình yêu duy nhất – qua sự gắn bó hôn nhân – để chỉ thuộc về Thiên Chúa và để Ngài sử dụng theo kế hoạch của Ngài. Chắc chắn là kế hoạch đó không đi ra ngoài việc phục vụ nhân loại, nhất là phục vụ Tình yêu cứu độ, một cách phổ quát, không điều kiện tiên quyết… Một nữ tu – cũng như nam tu – khi cam kết bước vào đời tu, cũng cam kết sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì Chúa muốn, qua sự hướng dẫn – có đối thoại – của Bề trên, của các vị có thẩm quyền, qua cộng đoàn mà mình chung sống. Cái quan trọng nhất trong đời “tận hiến” là quên mình, là biến mình ra không để hoàn toàn sống cho Chúa và cho tha nhân và luôn sẵn sàng phục vụ. Để minh họa cái tinh thần triệt để sẵn sàng đó, các câu thơ sau đã được thốt ra từ tâm khảm một tu sĩ sống giữa gian nan thử thách:

Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả,

Cho mọi người được hạnh phúc yên vui.

Còn phần con, xin gửi hết nơi Ngài,

Là Thiên Chúa, Tình yêu và lẽ sống,

Ngài cho con tất cả niềm hy vọng,

Để Tin, Yêu mà Vui Sống trọn đời.

Dĩ nhiên là một giáo dân sống giữa đời, với gánh nặng gia đình, ưu tư sinh kế, với những ràng buộc đa dạng, không thể nào có được sự thư thái tâm hồn, triệt để sẵn sàng như kẻ đi tu. Do đó mà đời tận hiến cho Thiên Chúa được ví như một “dấu chỉ”, một mũi tên hướng về Tuyệt đối của Nước Trời, của Tình yêu không điều kiện.

Lại một câu hỏi khác: Nếu Thiên Chúa đòi hỏi người tu sĩ từ bỏ tất cả để chỉ thuộc về Ngài, để làm dấu hiệu cho Nước của Ngài thì phải chăng đó là một Thiên Chúa ích kỷ, muốn chiếm đoạt tất cả cho mình? Thiên Chúa đó là ai?…

(xin xem phần tiếp theo…)

Nữ tu Mai Thành, CND-CSA