Giới Thiệu Lịch Sử Dòng Đức Bà

Dòng Đức Bà ra đời năm 1597 tại vùng đất thuộc Công Tước Lorraine, thuở đó độc lập đối với nước Pháp. Hội Dòng bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ của hai đấng thánh, Pierre FOURIER và Alix LE CLERC, cùng một nhiệt khí tông đồ và đặc biệt cởi mở đón nghe các tiếng gọi của thời đại các ngài.

Đó là một thời hỗn loạn, do phong hóa đồi trụy, bất công xã hội, bần cùng, dốt nát, do chiến tranh xâu xé xứ Lorraine – nhưng cũng là thời mang một niềm hy vọng lớn. Bên trong Giáo Hội, sau nhiều thế kỷ khủng hoảng và trước sự hăng say cùng đà phát triển của phái Tin Lành, Công Đồng Trentô (1545-1563) vừa mới kêu gọi thức tỉnh đức tin để đức tin được triển nở trong cuộc cải cách Công Giáo.

Thánh Pierre Fourier đến Mattaincourt năm 1597. Vị kinh sĩ trẻ tuổi ấy sinh tại Mirecourt năm 1565, theo trường trung học trong mười ba năm, rồi lên Đại Học Pont-à-Mousson, vừa được các cha Dòng Tên sáng lập. Ngài kết hợp trong bản lĩnh phong phú của mình nền văn hóa của nhà nhân bản và đức ái của người tông đồ. Ngài vừa mạnh dạn canh tân mục vụ, vừa cải thiện đời sống xã hội, biến đổi một họ đạo từ lâu bị bỏ rơi, làm cho một thị trấn xứ Vosges trở thành một trung tâm cải cách Công Giáo.

Cùng năm 1597, Mẹ Alix Le Clerc gặp Cha Pierre Fourier. Mẹ sinh tại Remiremont năm 1576. Không bao lâu trước đó, Mẹ đã được ơn hoán cải, có trực giác là được Chúa gọi “lập một ngôi nhà mới cho giới nữ để thực hiện nơi ấy tất cả mọi điều tốt lành có thể làm được”. Cha Pierre Fourier thận trọng khuyên nhủ Mẹ và cuối cùng nhìn nhận tính xác thực của ơn gọi Mẹ đã linh cảm. Không lâu sau, ơn gọi đó được xác nhận nhờ có bốn thiếu nữ cùng thiết tha sống một cuộc đời quảng đại hơn. Dự phóng của Mẹ Alix và các bạn muốn hiến thân cho Thiên Chúa “hợp thành cộng đoàn” được công khai thừa nhận lần đầu tiên tại Mattaincourt đêm Giáng Sinh 1597.

Cha Pierre Fourier chia sẻ với các chị ưu tư mục vụ của Cha, nhất là về việc dạy học cho các thiếu nữ khá bị lãng quên thời ấy. Cha ước mong có những ngôi trường rộng mở cho mọi thiếu nữ, nơi các em có thể học nghề và nhờ học vấn, thêm khả năng tác động trên gia đình và xã hội. Dự định của hai Đấng Sáng Lập Dòng là đồng hướng. Hội Dòng vừa mới thành hình với mục đích đầu tiên và chính yếu là “xây dựng những ngôi trường công” và dạy miễn phí cho các thiếu nữ. Ngôi trường đầu tiên được mở tại Poussay gần Mattaincourt, năm 1598.

Đây là lúc các bản văn đầu tiên về Hội Dòng ra đời : đó là “Luật tạm” (1598) kèm theo một thỉnh nguyện thư gửi Giám Mục địa phận Toul, trong thư đó Cha Pierre Fourier phác họa những nét chính của đời tu mới mẻ ấy. Năm nữ tu đầu tiên tự nguyện đem hết sức lực nhỏ bé của mình để “đảm nhận tất cả những gì các chị biết được là tốt đẹp nhất và có khả năng làm vinh danh và rạng rỡ Thiên Chúa nhất, hữu ích cho sự cứu rỗi và hoàn thiện bản thân các chị, đồng thời nâng đỡ tha nhân phần xác cũng như phần hồn”.

Công trình này đáp ứng đúng các nhu cầu của thời đại nên đã phát triển nhanh chóng. “Con cái của Đức Nữ Đồng Trinh Maria” được mời đến Mattaincourt (1599), Saint Mihiel (1602), Nancy, thủ đô đất công tước (1603) ; chẳng bao lâu các chị ra khỏi biên giới xứ Lorraine. Các chị bén nhạy trước nhu cầu của các đô thị cũng như các khu xóm và làng mạc, thăm viếng kẻ ốm đau và túng thiếu. Trường các chị đón nhận người giàu cũng như người nghèo, Công Giáo cũng như Tin Lành. Đối với người Tin Lành, các nữ tu được căn dặn là không được nói điều gì có thể làm cho họ khó chịu về tôn giáo của mình. Những em xuất sắc hơn thì được đào luyện để sau này đến lượt các em cũng đi dạy. Vì chưa có luật nội cấm, nên Hội Dòng lan rộng, đó là thời của các nhà “không nội cấm”. Mẹ Alix và Cha Pierre Fourier đã gây nên một “tinh thần”. Các Chị Em giúp đỡ lẫn nhau và tất cả các việc quan trọng đều được cùng nhau quyết định. Ngôi nhà mới trở thành một Hội Dòng thật sự theo nghĩa mới của từ ấy. Năm 1603, Đức Hồng Y Charles xứ Lorraine đã phê chuẩn Hiến Chương đầu tiên của Hội Dòng.

Lý tưởng là được Rôma phê chuẩn điều mà các chị đã sống “vừa là nữ tu vừa là giáo viên”. Nhưng thời đó việc dạy dỗ học sinh ngoại trú xem như không thể nào dung hòa được với luật nội cấm ngặt mà các sắc lệnh của Công Đồng Trentô còn đặt nặng hơn nữa. Các Tông Thư đầu tiên (1615 – 1616) của Đức Giáo Hoàng Phaolô V chỉ miễn cưỡng cho phép dạy học sinh ngoại trú, và chỉ cho riêng tại Nancy thôi, nơi mà tu viện đầu tiên được thành lập năm 1617. Đó cũng là năm “Hiến Chương nhỏ” được Giám Mục ở Toul phê chuẩn.

Năm 1622, Mẹ Alix Le Clerc qua đời tại Nancy, nơi mà gương thánh thiện của Mẹ đã chiếu tỏa sâu rộng. Ít lâu sau, Cha Pierre Fourier được Giám Mục ở Toul giao việc hoàn thành công cuộc cải cách các Kinh Sĩ xứ Lorraine. Cha đã sáng lập Dòng các Kinh Sĩ Chúa Cứu Độ và đã hoàn thành công việc đó trong một chiều hướng tông đồ rộng rãi, giao cho các Kinh Sĩ hoạt động không những trong công tác mục vụ mà còn đi giảng trong các họ đạo, giảng dạy miễn phí người nghèo và huấn luyện giáo sĩ nữa. Biến cố cải cách các Kinh Sĩ đó đã góp phần thay đổi cách vận động xin Rôma phê chuẩn Dòng Đức Bà. Bây giờ sự hợp nhất các tu viện xem như được bảo đảm, vì có một “Vị Giám Sát” thuộc Dòng Kinh Sĩ Chúa Cứu Độ chung cho cả hai Hội Dòng cùng có một tinh thần, một Vị Sáng Lập và một luật dòng.

Năm 1628 Hội Dòng nhận được một Tông Thư của Đức Giáo Hoàng Urbain VIII. Tuy Tông Thư ấy không đáp ứng hoàn toàn kế hoạch của Cha Pierre Fourier – quá táo bạo đối với thời đại của ngài – nhưng ít ra cũng bảo đảm điều chính yếu là : thánh hiến sứ mệnh tông đồ như là mục đích đầu tiên của Dòng Đức Bà. Chính nhằm mục tiêu đó mà các nữ tu khấn lời khấn thứ tư, là “giáo dục”. Các học sinh ngoại trú có thể được nhận trong một ngôi nhà tách biệt nội cấm. Nhưng các nhà “ không nội cấm” theo như các Đấng Lập Dòng đã muốn lúc ban đầu, chưa được nhìn nhận.

Ngay từ đầu, Cha Pierre Fourier và Mẹ Alix Le Clerc đã chọn Luật Dòng thánh Âu Tinh, vì nghĩ rằng Luật Dòng ấy “sát với các lối sống của các Tông Đồ và Chúa Giêsu hơn cả”. Tông Thư 1628 đã chuẩn y sự lựa chọn đó. Khi kết hợp Dòng nữ này với các Kinh Sĩ đã được cải cách tại xứ Lorraine, Tông Thư trên không nhập Dòng nữ đó với loại Dòng “Đan Tu”, mà với các Dòng có tính chất “cộng đoàn”, trong đó có các Kinh Sĩ – đây là một lối sống tu trì kết hợp cùng một trật đời sống cộng đoàn và sứ mệnh tông đồ. Đối với Cha Pierre Fourier, đó là một cách trở về với các “canonicae” thời Giáo Hội sơ khai – “canonicae” là phụ nữ thánh hiến, sống một cuộc sống tông đồ phục vụ các Giáo Hội địa phương.

Tông Thư của Đức Giáo Hoàng Urbain VIII đã gây căng thẳng với các giám mục và giữa các tu viện. Những cuộc xáo trộn đó lại thêm trầm trọng do tình hình của xứ Lorraine bắt đầu cuộc chiến với nước Pháp. Trận chiến Ba Mươi Năm lúc bấy giờ tàn phá xứ sở. Các tu viện bị phân tán. Năm 1636, Cha Pierre Fourier vẫn luôn bảo vệ nền độc lập của xứ Lorraine và ai cũng biết ngài ảnh hưởng trên các công tước xứ ấy. Ngài phải sống lưu vong tại Gray, vùng Franche-Comté.

Chính tại đó mà ngài soạn Hiến Chương lớn, cho đến khi ngài qua đời ngày 9 tháng 12 năm 1640. Nhưng ngài không liên lạc được với toàn thể Hội Dòng ; ngài không thể tham khảo được ý kiến của Chị Em như thường lệ về các chương trong Hiến Chương có tương quan mật thiết với “cẩm nang”, những tập tục trong Dòng. Do đó mà có những sự chia rẽ trong các tu viện lúc xuất bản Hiến Chương ấy, sau khi được Đức Giáo Hoàng Innocent X phê chuẩn năm 1645. Tuy nhiên các chương căn bản của Hiến Chương, gọi là “1640”, về việc nối gót Đức Kitô theo tinh thần Hội Dòng, vẫn chất chứa một sự phong phú thiêng liêng lớn lao.

Từ năm 1598, Hội Dòng không ngừng lan rộng ở Lorraine, rồi đến tận vùng Normandie ở Pháp, hướng về phía “đại dương” như Cha Pierre Fourier vẫn nói; đến nước Lục Xâm Bảo; đến đất Công Tước Aoste, ở Bruxelles. Năm 1640, Hội Dòng tiến vào nước Đức. Mười năm sau khi Cha Pierre Fourier qua đời, Hội Dòng đã có được 59 cơ sở.   

Qua nhiều thế kỷ, Dòng Đức Bà đôi khi bị cuốn theo những đợt xoáy của lịch sử: cuộc Cách Mạng năm 1789 khiến cho không còn một tu viện nào ở nước Pháp đứng vững, cuối thế kỷ XIX có phong trào Kulturkampf ở Đức, và đầu thế kỷ XX có các điều luật trục xuất linh mục tu sĩ ở Pháp. Các nữ tu vẫn luôn chọn thà rời bỏ tu viện, xứ sở, hơn là bỏ sứ mệnh tông đồ. Trong các xứ đón tiếp các chị như nước Anh, Bỉ, Hà Lan, Hội Dòng đâm rễ và các thời thử thách đó lại trở nên cơ hội triển nở mới mẻ. Ngoài ra, các tu viện còn được mở tại các nước Hungary, Áo và Ý. Hậu quả của hai trận thế chiến 1914 và 1939 -việc thiết lập liên bang Tiệp Khắc năm 1919[1]– và các biến cố chính trị, đánh dấu một cách đặc biệt các tu viện ở Trung Âu.

Cùng với sự trung thành của Hội Dòng đối với ơn gọi tông đồ của mình, việc duy trì sự hợp nhất của Hội Dòng đã là ưu tư lớn của các Đấng Lập Dòng. Tình đoàn kết được thể hiện bằng sự tương trợ và các mối quan hệ giữa các tu viện ; tâm tình ấy được diễn tả một cách đặc biệt trong dịp phong thánh Cha Pierre Fourier năm 1897. Đến thế kỷ XX, tình đoàn  kết ấy mới có được quy chế pháp lý của mình.

Năm 1910, “Hiệp Hội Jupille” quy tụ các nhánh của tu viện Jupille (Bỉ) sáng lập năm 1878, trong thời Kulturkampf, do tu viện Trêves. Ba nhà khác sau này sát nhập vào Hiệp Hội ấy vào năm 1939, tu viện Berlaymont và Bruxelles cũng nhập vào đấy. “Hiệp Hội Rôma” được thành lập do sự quy tụ dần dần một số lớn các nhà ở nhiều nước, sẽ được công nhận vào năm 1931.

Sau lễ phong Mẹ Alix Le Clerc lên bậc Chân Phước vào năm 1947, ý muốn kết hợp giữa các nhà khơi dậy những cuộc gặp gỡ và làm việc chung với nhau. Năm 1959, một Liên Bang quy tụ hai Hiệp Hội và năm tu viện ở Đức-Áo. Tại Nancy, tháng 7 năm 1960, nhân các dịp lễ mừng hài cốt của chân phước Alix Le Clerc được chính thức nhìn nhận, các Chị Em Dòng Đức Bà tự thấy mình rất gần nhau trong cùng một tinh thần và lòng trung thành với Hiến Chương như nhau. Liên Hiệp các tu viện nói tiếng Đức được hình thành năm 1961. Ngày 4 tháng 4 năm 1963, Rôma tuyên bố sự phối hợp hai Hiệp Hội Jupille và Rôma dưới một Cơ Quan Tổng Quản duy nhất.

Việc thành lập các Hiệp Hội và một sự quản trị tập trung hơn đã giúp Hội Dòng bành trướng. Châu Mỹ La Tinh (Brazil) mở cửa đón các nữ tu của Jupille năm 1906 ; Châu Á (Việt Nam) đón các nữ tu Hiệp Hội Rôma năm 1935. Sau đó Hội Dòng đã du nhập Châu Phi, trong xứ Zaïre[2] vào năm 1940, và tại Uganda năm 1960. Sau 1963, thành lập những nhà tại Algérie, Hong Kong, rồi California, Mexico, Tchad. Như vậy, cảm hứng đầu tiên của các Đấng Lập Dòng đã dần dần được thực hiện : các ngài ước muốn có một Hội Dòng rộng mở trên thế giới : “Hãy đi, dạy dỗ…”

Cái nhìn tổng quát ngắn gọn này về lịch sử Dòng Đức Bà nằm giữa hai Công Đồng. Công Đồng Trentô cho Hội Dòng khả năng sống một đời tu trì tông đồ theo các điều kiện riêng của thời đại ấy. Công Đồng Vatican II (1962-1965) kêu gọi Hội Dòng canh tân sâu sắc trong việc trở về nguồn.

Trong hơn ba thế kỷ, Hội Dòng đã có một bộ mặt khá đồng nhất, bộ mặt những cộng đoàn có nếp sống đan tu, gắn liền với những trường học lớn. Sau Vatican II, bộ mặt ấy được thay đổi, Hội Dòng mở ra đón nhận những hình thức mới để diễn tả đời sống cộng đoàn, cầu nguyện, hoạt động giáo dục.

Năm 1969, Tu Nghị đặc biệt nhóm họp tại Verneuil-sur-Seine (Pháp), đã nhất trí biểu quyết rằng “hoạt động tông đồ thuộc về chính bản chất đời tu của Hội Dòng”, trích dẫn văn kiện Công Đồng “Perfectae Caritatis” số 8. Tại Tu Nghị năm 1972, các đường hướng ấy lại được Thánh Bộ Tu Sĩ xác nhận và nhìn nhận.

Đệ tứ bách niên ngày sinh của Mẹ Alix Le Clerc năm 1976 là dịp gặp gỡ lớn quốc tế, cuộc “gặp gỡ ở Lorraine”, trong đó Chị Em thuộc những văn hóa khác nhau đã sống kinh nghiệm cùng nhau nhìn nhận một lịch sử và một tinh thần chung. Lịch sử đó vẫn tiếp tục, trong việc đào sâu tinh thần sơ khởi ấy của Hội Dòng và việc nhận thức những tiếng gọi mới của thời đại.

Trích Hiến Chương 1984

[1] Chú thích của Ấn bản 2014 : « Tchécoslovaquie tuyên bố độc lập vào năm 1918 và được công nhận vào năm 1919 nhờ hiệp ước Saint-Germain-en-Laye ; chỉ về sau này nước Cộng hòa Tiệp Khắc mới nhận hình thức liên bang ».

[2] Chú thích của Ấn bản 2014 : Zaïre nay đã trở thành nước Cộng hòa Dân chủ Congo.