Lược Sử Hội Dòng Đức Bà
Thế kỷ 16: Vào thế kỷ 16, xứ Lorraine là vùng đất của Công Tước, thời đó độc lập với nước Pháp, được hưởng thái bình thịnh vượng, phát triển về mặt kinh tế, trao đổi hàng hóa với các xứ lân cận.
Nhưng đến cuối thế kỷ 16, những tranh chấp chính trị và tôn giáo mở màn cho những cuộc chiến tranh kéo dài, dẫn đến những cảnh hỗn loạn, bần cùng, cướp bóc, đồi trụy, dân chúng lầm than và dốt nát.
Giáo hội cũng trải qua một cơn khủng hoảng trong hàng ngũ các giáo sĩ và tu sĩ: điều này giải thích phần nào phản ứng của Luther. Công đồng Trentô (1545-1563) chủ trương một cuộc cải cách tôn giáo, kêu gọi thức tỉnh niềm tin. Thời đại này cũng là một mùa xuân thánh thiện, nhiều vị thánh xuất hiện : ở Tây Ban Nha có I-nhã, Tê-rê-xa thành Avila, Gio-an Thánh Gía, ở Ý có Phi-líp Nê-ri, ở Pháp có Phao-lô đệ Vinh sơn và nhiều vị khác nữa …
Dòng Đức Bà ra đời năm 1597, tại Lorraine, do từ một cuộc hạnh ngộ của hai đấng thánh Pierre Fourier và Alix le Clerc : cùng một nhiệt khí tông đồ và đặc biệt cởi mở lắng nghe những tiếng gọi của thời đại các Ngài.
Pierre Fourier sinh tại Mirecourt năm 1565, trong một gia đình thương gia khá giả. Sau nhưng năm học tập chuyên cần, chàng thanh niên này được gủi đến đại học Pont-à-Mousson của dòng Tên. Năm 20 tuổi cậu gia nhập Dòng Kinh Sĩ ở Chaumousey, và được thụ phong linh mục ngày 15.02.1589. Đến năm ngài chọn đến phục vụ tại giáo xứ Mattaincourt, vừa nghèo về vật chất, vừa sa sút về đạo hạnh, một nơi mà “người ta kéo nhau đến các quán rượu đông hơn là đến nhà thờ”
Với một bản lĩnh phong phú, cha Pierre Fourier kết hợp văn hóa của một nhà nhân văn với đức ái của một người tông đồ. Cha cầu nguyện nhiều đêm dài trong nhà thờ, mạnh dạn canh tân mục vụ, biến đổi một họ đạo đã bị bỏ rơi từ lâu, dấn thân đến với người nghèo, cải thiện đời sống xã hội, thành lập một quỹ tương trợ, Cha là một nhà giáo dục xuất chúng. Danh thơm của cha được nhiều người biết đến, nên nhiều cầm quyền đến xin cha cố vấn.
Alix le Clerc sinh tại Remiremont năm 1576, một thị trấn có nhiều gia đình giầu sang sung túc, thanh niên thiếu nữ có nhiều cơ hội vui chơi … nhưng sau những buổi dạ hội, cô Alix cảm thấy “buồn bã giữa những thú vui chóng qua”. Năm 19 tuổi, cô được ơn hoán cải và có trực giác là được Chúa gọi “Lập một ngôi nhà mới cho giới nữ để thực hiện tất cả mọi điều tốt lành có thể làm được.”
Năm 1597, cô gặp được cha Pierre Fourier tại giáo xứ Mattaincourt, cha vốn là một con người thận trọng, đã tìm hiểu kỹ càng ước vọng của cô và cuối cùng nhận ra ơn gọi của cô là chân thật. Chỉ vài tháng sau, có thêm bốn thiếu nữ nữa cũng tha thiết như cô Alix, hiến dâng đời mình cho Chúa.
Đêm Giáng Sinh 1597, giáo dân mừng Con Thiên Chúa ra đời và đồng thời cũng chứng kiến khai sinh của “cộng đoàn đầu tiên” của “Con cái Đức Nữ Trinh Maria” sau này mang tên nữ tu Dòng Đức Bà.
Cha Pierre Fourier chia sẻ với các cô những ưu tư mục vụ của cha, nhất là về việc dạy học các trẻ nữ bị lãng quên ở thời đó. Cha và Mẹ Alix đều ước mong mở những ngôi trường miễn phí có thể dạy các trẻ học chữ, học nghề, và học những gì hữu ích cho một bà mẹ gia đình tương lai và cho một con người sống trong xã hội. Năm nữ tu đầu tự nguyện đem hết sức lực bé nhỏ của mình để “đảm nhận tất cả những gì các chị biết được là tốt đẹp nhất, có khả năng làm vinh danh Thiên Chúa nhất, hữu ích cho sự cứu rỗi và hoàn thiện bản thân của các chị, đồng thời nâng đỡ tha nhân phần xác cũng như phần hồn.”
Năm 1598, ngôi trường đầu tiên được mở tại làng Poussay, gần giáo xứ Mattaincourt. Vì công trình này đáp ứng đúng nhu cầu của thời đại đó, nên đã phát triển mau. Sau trường làng Poussay, các đô thị khác cũng yêu cầu các nữ tu đến mở trường:
1599 ở Mattaincourt,
1602 ở đô thị Saint-Mihiel,
1603 ở ngay tại Nancy là thủ đô xứ Lorraine…và chẳng bao lâu các nữ tu sẽ vượt ra khỏi biên giới Lorraine.
Ngoài những giờ dạy học cho thiếu nữ nghèo cũng như giầu, Công giáo và Tin lành (Cha còn căn dặn các nữ tu đừng làm gì có thể xúc đến tính ngưỡng của các em này) … các nữ tu còn thăm viếng những người ốm đau, túng thiếu … Nhưng cha Pierre Fourier cũng như mẹ Alix đều đã tạo ra một “tinh thần” cho cộng đoàn sơ khởi này: đó là các nữ tu chân thành giúp đỡ nhau, và trong những công việc quan trọng, bàn bạc với nhau trước khi cùng nhau quyết định.
Một dự án táo bạo
Ngôi nhà mới đã trở thành một Hội dòng với một “Luật tạm” soạn thảo năm 1598, và xin được Roma phê chuẩn điều các nữ tu đã sống: “vừa là giáo viên, vừa là nữ tu”. Nhưng đối với thời đó việc dạy dỗ các học sinh ngoại trú xem như không thể dung hoà được với luật nội cấm mà các sắc lệnh của Công Đồng Tren-tô còn đặt nặng hơn nữa. Sau nhiều cố gắng của cha Pierre Fourier để giải thích nếp sống mới mẻ của dòng tu này, sau nhiều khó khăn tưởng như không thể vượt được, năm 1628 một tông thư của Đức Giáo Hoàng Ur-ba-nô VIII xác nhận điều chính yếu : Thánh hiến sứ mệnh tông đồ là mục đích đầu tiên của Dòng Đức Bà. Vì thế mà các nữ tu có lời khấn thứ tư là “giáo dục”. Năm 1622, mẹ Alix qua đời trước khi thấy được Ro-ma chính thức phê chuẩn dòng Đức Bà. Năm 1640, cha Pierre Fourier qua đời sau khi đã hoàn tất việc soạn thảo Hiến Chương, chứng kiến 59 cơ sở của Hội Dòng hiện diện tại nhiều nơi ở Lorraine, Pháp, Lục-xâm-bảo, Bỉ … và Cha khuyến khích các nữ tu : để mở rộng Nước Chúa … đừng ngần ngại chạy ra tới biển khơi …
1997
Dòng Đức Bà mừng 400 năm hiện diện trong Giáo hội và trên thế giới
Tưởng nhớ quá khứ,
Nhìn lại hôm nay
Phóng đến tương lai.
Lịch sử dòng Đức Bà diễn ra giữa hai Công đồng : Công đồng Tren-tô (1545-1563) cho Hội dòng một khả năng sống một đời tu tông đồ với những điều kiện riêng của thời đại ấy, Công đồng Vatican II (1962-1965) kêu mời Hội Dòng canh tân sâu sắc trong việc trở về nguồn.
Trong hơn ba thế kỷ, Hội dòng đã có một bộ mặt khá đồng nhất, bộ mặt những cộng đoàn có nếp sống đan tu, gắn liền với những trường học lớn (từ mẫu giáo đến đại học). Sau Vatican II, bộ mặt ấy được thay đổi, Hội dòng mở ra đón nhận những hình thức mới để diễn tả đời sống cộng đoàn, cầu nguyện hoạt động giáo dục.
Những cuộc gặp gỡ các nữ tu ở cấp quốc tế, những khoá thảo luận, và những chứng từ, giúp hiểu rõ hơn những chủ đề liên quan đến :
– giáo dục,
– vị trí người phụ nữ,
– hiện tượng những người di dân,
– vấn đề công lý,
– người nghèo của thế giới hôm nay…
– những thánh lễ, những cuộc hành hương về cái nôi của Hội dòng, những buổi cầu nguyện chung…
Là những cơ hội để chị em có một kinh nghiệm sâu xa về tình huynh đệ liên kết chị em ở trên bốn lục địa, sống sự hiệp nhất trong đa dạng về văn hoá và ngôn ngữ, qua những dấn thân khác nhau, nhưng cùng thực hiện một sứ vụ: làm vinh danh Chúa, thánh hóa bản thân và phục vụ con người.