Nhà Tập Đầu Tiên Của Dòng Đức Bà Tại Đà Lạt

Nhà Tập Đầu Tiên Của Dòng Đức Bà
Tại Đà Lạt

DalatChị em thân mến, chúng tôi muốn giới thiệu với chị em nhà tập Đà Lạt, mà chúng tôi biết, cũng như chị Thérése de Jésus, nhưng sau chị một thời gian, từ 1944 đến 1947.

Chúng tôi vào một Hội Dòng được gọi là “hỗn hợp”. Lịch sử và truyền thống đã đưa dự án tông đồ của các Đấng Lập Dòng chúng ta đến một hình thức, mà lúc đó được Giáo Hội chấp nhận cho nữ giới, những người vừa muốn dâng mình cho Chúa, vừa muốn góp phần mình vào việc giáo dục các trẻ nữ. (Sắc lệnh của Đức Thánh Cha Urbain VIII năm 1628) Chúng tôi được coi như là những “nữ đan sĩ” chuyên lo việc đọc các giờ kinh phụng vụ và giảng dạy, giáo dục đức tin cho trẻ em và các thiếu nữ.

Hội Dòng đã có được một lịch sử khá dài, đã trải qua thử thách của các cuộc chiến tranh, bắt bớ; tuy nhiên phần chính yếu trong đời sống của các nữ tu không thay đổi bao nhiêu.

Các Tu viện giữ mối giao hảo thân tình, nhưng độc lập về phần quản trị, vào thế kỷ thứ 17, Rôma nghĩ rằng người phụ nữ không thể đảm nhận chức vụ tổng quản trị một Hội Dòng. Thời cuộc đã thay đổi và về vấn đề này, chính Rôma đã mời gọi, một cách khẩn thiết các dòng nữ như chúng ta, phát sinh thời chống lại cuộc cải cách của người Tin Lành, kết hợp thành những hiệp hội, thể theo các hiến pháp mà các nữ tu tuân giữ.

Khởi sự năm 1928, “Hiệp Hội Pháp” quy tụ các tu viện Pháp đã phải lưu vong năm 1904 cùng các tu viện chi nhánh được thành lập từ đó. Năm 1931, trong một tổng tu nghị “bất thường” họp tại Verneuil sur Sein, các đại biểu của các tu viện bỏ phiếu để thàh lập một ban trung ương. Sắc lệnh ngày 17 tháng 2 năm 1932 của Thánh Bộ Các Tu Sĩ chấp nhận quyết định của Tổng Tu Nghị, thành lập Ban Trung Ương, nhà tập trung ương, công nhận mẹ Marie du Rosaire de Gramont là Bề trên tổng quyền trong thời hạn 3 năm (trước đây mẹ đã được bầu làm Bề trên tổng quyền của Hiệp Hội Pháp), và Hiệp Hội được hình thành mang tên là “Nữ Kinh Sĩ thánh Âu Tinh thuộc Dòng Đức Bà Hiệp Hội Rôma”.

Năm 1935, cuộc tổng tu nghị thứ hai được diễn ra tại Verneuil, dưới thời Đức Giáo Hoàng Piô XI, vị giáo hoàng của các công cuộc truyền giáo và tông đồ. Do lời kêu gọi khẩn thiết của Rôma và lòng mong ước của chị em, tổng tu nghị chính thức quyết định thành lập một điểm truyền giáo tại Viễn Đông. Việc đặt chân trên đất nước Việt Nam đã được chuẩn bị bằng một chuyến đi khảo cứu của Mẹ Saint Thomas d’Aquin Forest – cố vấn trung ương – và Mẹ Saint Ambroise – quản lý trung ương – vào năm 1934, với sự hướng dẫn của các cựu học sinh và bạn hữu của Hội Dòng.

Tại Đà Lạt, ngày 15 tháng 10 năm 1935, trường và phần nội trú được khai trương tại “Mostini”, trong khi “Đức Bà Lâm Viên” đang được xây và sẽ được hoàn tất cho niên khóa tháng 10 năm 1936. Mười hai chị em nữ tu tham dự vào cuộc khai trương này đến từ những nhà khác nhau, và việc thiết lập một nhà tại Việt Nam đối với Hội Dòng là một bằng chứng thiết thực về sức sống của Hiệp Hội còn non trẻ này. Sự hiệp nhất thiết thực đến nỗi chị em (lúc đó được gọi là “các mẹ”) không còn tưởng tượng cái quá khứ khá dài của những tu viện độc lập nơi mà chị em đã khấn. Chỉ có những chị trẻ nhất là đã khấn ở Verneuil.

Cùng với các chị em đó, chúng tôi bắt đầu một đời sống đúng theo luật nội cấm ngặt, nghĩa là chỉ ra ngoài vì nhu cầu tông đồ hoặc vì lý do sức khỏe.

Một đời sống cầu nguyện với trọn các giờ kinh phụng vụ, cử hành tại nơi cung thánh, bằng tiếng Latinh: giờ 1 và giờ 3 trước thánh lễ cộng đoàn, giờ 6 và giờ 9 giữa trưa, kinh chiều và kinh tối lúc chiều, kinh ban mai và kinh sáng vào buổi tối, trước bữa tối. Thời biểu này kỳ lạ, cũng như việc cử hành lễ vọng Phục Sinh vào sáng thứ bảy tuần thánh, những điều này đã thay đổi với cuộc canh tân phụng vụ do Đức Thánh Cha Pio XII đề ra.

Với tất cả những giờ kinh nguyện đó, tập sinh chúng tôi, mỗi ngày còn có giờ Huấn Đức và sau đó có giờ để “xin phép”; những chị em nào cần, có thể xin phép làm điều này hay điều kia, những việc mà không có ghi trong thời biểu thường ngày hoặc trong công tác.

Chúng tôi cũng được chỉ dẫn để tham dự vào “buổi tự thú”. Buổi này được diễn ra tại cộng đoàn. Chị em trẻ bắt đầu và xin lỗi về những lỗi đã phạm đối với luật dòng; ví dụ: chạy trong hành lang, tới trễ giờ đọc kinh, nói khi không cần thiết…phải giữ thinh lặng ngoại trừ trường hợp cần thiết vì công việc đòi hỏi (làm vệ sinh, giáo viên…)

Nhưng cũng có những giờ thư giãn, giờ “chơi” thì được nói chuyện, nhiều khi cũng rất vui, có khi thì đi dạo quanh các đồi cây ở xung quanh nhà, lúc đó chưa có ai ở.

Thường là đi với “Thiên Thần Lành” của chúng tôi là chị Marie de L’Enfant Jésus (Catherine Moutrier), một vị thiên thần lành đặc biệt, vui tính tốt bụng và đơn sơ phản ánh một đời tận hiến chân chính.

Vài nét phác họa cũng tạm cho thấy những gì chúng tôi phải học, phải hấp thụ, phải yêu mến.

Đương nhiên là thời gian huấn luyện là một thời gian quý báu. Chúng tôi đã cùng học tập với nhau và đối với chúng tôi, điều này cũng rất quý.

Chúng tôi được tập luyện để sống đời tu qua các sách của Cha Rodriguez, dòng Tên và những lời quảng diễn của Mẹ Agnès du Sacré Coeur Dognin, Mẹ Thầy của chúng tôi. Chúng tôi nhớ lại điểm mà mẹ Agnès nhấn mạnh là cần phải tin tưởng vào Thiên Chúa, phó thác vào sự quan phòng của Người. Làm sao quên được cách Mẹ ân cần chăm sóc chúng tôi, kiên nhẫn nâng đỡ để chúng tôi tiến bước trên con đường đã chọn.

Chúng tôi được dẫn vào đời sống thiêng liêng và đời sống cầu nguyện qua các tác giả: Dom Chautard, Dom Marmion và cũng qua việc đào sâu các mùa phụng vụ, học hỏi Thánh Vịnh mà thời đó chúng tôi đọc bằng tiếng latinh, ngôn ngữ mà số đông trong chị em chúng tôi không nắm vững. Nhờ đó, chúng tôi đã thấm nhập được lòng yêu mến kinh nguyện của Giáo Hội.

Chúng tôi cũng đào sâu kiến thức của chúng tôi về tín lý cũng như về Tin Mừng. Chúng tôi còn nhớ là, mỗi người chúng tôi, tay cầm bút trình bày sách Nhất Lãm Tin Mừng theo Thánh Matthêu, Luca, Maccô.

Thời gian huấn luyện còn có những buổi trao đổi riêng với Mẹ Thầy: dĩ nhiên đây là một thời gian quan trọng để có thể nói về những vấn đề mà ta gặp trong thời gian ở “nhà tập”, những cố gắng của ta, những vấp ngã, về đời sống huynh đệ, cầu nguyện…cũng có thể nói về gia đình vì đây là một đề tài không được nêu ra trong giờ giải trí, trừ khi là một biến cố đặc biệt: trẻ mới sinh, rửa tội, cưới hỏi, tang lễ.

Trong suốt thời gian đó, chúng tôi cũng như cộng đoàn được hưởng thừa tác vụ của Cha Byrne dòng Tên và Dom Romain dòng Biển Đức.

Cha Byrne vị sáng lập đại học “Aurore” tại Thượng Hải đã bị buộc phải rời khỏi Trung Quốc khi Nhật đến chiếm đóng. Cha biết Đà Lạt vì đã đến nghỉ tại đó năm 1939. Cha trở lại, và chúng tôi được đặc ân là Cha làm tuyên úy từ tháng 6 năm 1942 đến tháng 2 năm 1946. Các bài giảng sống động của cha dẫn đưa thính giả vào một cảm thức sâu sắc về tình thương bao la của Chúa cùng với lòng nhân từ của Người, qua những dụ ngôn thật hấp dẫn, đối với trẻ nhỏ cũng như người lớn. Trong thánh lễ Chúa Nhật cho các em “nội trú”, cha thường dùng câu truyện “Alice trong xứ sở thần tiên” để minh họa cho các bài giảng của Cha.

Mỗi người chúng ta đều nhớ bài giảng của thánh lễ được cử hành trong một hoàn cảnh bi đát, đó là ngày các học sinh nội trú phải trở về gia đình sau ngày 9 tháng 3 năm 1944. Trên một con tàu lớn, giữa đại dương ầm ầm nổi sóng, mọi người trên tàu hoảng sợ, một bé gái tiếp tục chơi giỡn. Người ta hỏi: “con không sợ sao?” bé đáp thật hồn nhiên: “ồ không, bố lái tàu mà”. Chúng tôi nghĩ và ước mong hình ảnh đầy ý nghĩa này được in sâu vào tâm khảm của nhóm trẻ và luôn theo dõi chúng trong cuộc sống.

Các cha Biển Đức ở “La Pierre qui Vire” đã thành lập ở Việt Nam một nhà cũng vào thời điểm nhà Đức Bà Lâm Viên. Một cha, Dom Romain, nhiều lần đã tới giảng cho cộng đoàn và nhà tập. Vào thời điểm đó, nếp sống tu trì của hai dòng có nhiều điểm giống nhau, và chúng tôi chia sẻ sự khôn ngoan của Biển Đức và cả đức tin mãnh liệt của Dom Romain, lúc nào cũng đầy lòng nhân từ, thỉnh thoảng đượm vẻ tinh nghịch đối với nhóm tập sinh mà Ngài quen biết trước khi vào nhà tập.

Lúc đó chúng tôi ở đâu?

Hồi đầu, chúng tôi ở lầu 2, phần giữa bên trên cửa chính. Đó là một khoảng trống rộng rãi, có cửa để vào kho chứa đồ bên dưới mái nhà, nằm phía trên các phòng ở lầu một. Những bức vách ngăn cách phòng của tập viện cũng là văn phòng của Mẹ Thầy, phòng học và phòng ngủ của chúng tôi. Phòng ngủ rất khó nghèo, có một cái giường, một cái bàn để thau chậu rửa mặt (trong phòng không có vòi nước), một cái ghế và một bàn nhỏ, tất cả quần áo – kể cả đồ lót- đều để lại tại phòng quần áo của cộng đoàn. Thỉnh thoảng, lại có biến cố “trộn xà lách” nghĩa là bất chợt chúng tôi phải đổi phòng, đổi bàn, chỗ ngồi ở phòng học, một cách luyện tập đức tính để dễ dàng thay đổi, không dính bén cứng ngắc vào thói quen.

Buổi sáng, chúng tôi ra khỏi giường đến nhà nguyện, cầu nguyện nửa giờ trước giờ kinh phụng vụ một, ba và thánh lễ, chúng tôi trở về phòng sau giờ chơi buổi tối. Lúc đó là giờ thinh lặng ngặt, trừ trường hợp khẩn thiết, không được nói kể từ khi kết thúc giờ chơi bằng bài hát xin ơn chúc lành “Nos cum prole pia” cho đến hết thánh lễ sáng hôm sau. Thời gian nghỉ ngơi cũng là thời gian trầm tĩnh.

Trong thời gian ở nhà thử, chúng tôi ra làm việc với học sinh như dạy ở cấp một hoặc cấp hai, làm giám thị, tham gia vào các sinh hoạt của cộng đoàn như lo về áo quần, phòng ăn, quét dọn. Trong năm ngặt, chỉ còn có các sinh hoạt trong cộng đoàn thôi và các giờ học gia tăng. Khi hết các việc đó, chúng tôi yên lặng làm việc trong phòng học. Khi năm ngặt kết thúc chúng tôi được khấn tạm.

Ngày 17 tháng 12 năm 1944, Đức Cha Cassaigne giám mục Sài Gòn đến làm phép và khánh thành nguyện đường tuyệt đẹp của chúng tôi.

Biến cố lớn lao này dẫn đến một hậu quả nhỏ nhưng rất thú vị cho nhà tập, đó là việc chuyển nhà tập và phòng học xuống dưới hầm bên dưới phần cung thánh của nhà nguyện được xây trên sườn đồi. Đúng là một gian nhà kề cận ngay vườn, gần cỏ cây, và chúng tôi đã được một vài thú vật đến thăm viếng, côn trùng các loại, nhện, rắn…

Nơi đây, khóa “sáu chị em” chúng tôi đã được cuộc tĩnh tâm chuẩn bị khấn với cha Byrne giảng.

Chúng tôi đã cảm thấy hạnh phúc và chúng tôi đã được huấn luyện để cho đến ngày hôm nay chúng tôi vẫn có thể hòa hợp vào mọi tình huống và bước theo đà tiến triển thật mau lẹ của nền văn minh, với những sắc thái đặc biệt của thời đại chúng ta và với ơn Chúa, chúng tôi cố gắng bảo toàn sức sinh động của dự phóng của các Đấng lập dòng, trong các hoạt động và đời sống của chúng tôi.

Tháng 11 năm 2004.
Soeur Maria Emmanuelle Nguyễn Thị Nghĩa.
Soeur Mireille Borel
Soeur Marie Claire Deseille
Soeur Madeleine Marie Foulon
Soeur Marie Nicole Trouilleux